Trang chủ Dinh dưỡng Chế độ dinh dưỡng giúp trẻ tăng đề kháng, ngừa nguy cơ...

Chế độ dinh dưỡng giúp trẻ tăng đề kháng, ngừa nguy cơ nhiễm Covid-19

8
0
Chia sẻ

Một hệ thống miễn dịch khỏe mạnh giúp trẻ giảm nguy cơ nhiễm virus và vi khuẩn, chống lại tác nhân gây bệnh, rất cần thiết trong giai đoạn dịch Covid-19 diễn biến phức tạp như hiện nay.

Theo ThS.BS Nguyễn Văn Tiến, Trung tâm Giáo dục Truyền thông dinh dưỡng, Viện Dinh dưỡng Quốc gia, hệ thống miễn dịch được tạo thành từ một mạng lưới các tế bào, mô và cơ quan phối hợp với nhau nhằm chống lại sinh vật truyền nhiễm, tác nhân gây bệnh. Ở mỗi người, hệ thống này sẽ mạnh yếu khác nhau do các yếu tố như tuổi tác, thói quen ăn uống và lối sống.

Một hệ thống miễn dịch khỏe có thể làm giảm nguy cơ nhiễm virus và vi khuẩn, chống lại tác nhân gây bệnh, giảm bớt thời gian điều trị và tăng tốc quá trình phục hồi sau khi khỏi bệnh. Bởi vậy, việc giúp trẻ có hệ thống miễn dịch khỏe mạnh rất quan trọng trong giai đoạn dịch Covid-19 diễn biến phức tạp như hiện nay.

Bệnh nhi Covid-19 điều trị tại BV Bệnh nhiệt đới Trung ương – Ảnh: Minh Tú

ThS Tiến phân tích, khi mới sinh ra, cơ thể trẻ còn non nớt, hệ miễn dịch chưa được hoàn thiện, sức đề kháng còn kém. “Ở cùng một lứa tuổi, cùng một điều kiện chăm sóc và môi trường sống nhưng khi phải đối diện với tác nhân gây bệnh từ bên ngoài như dịch bệnh, thay đổi thời tiết,… có trẻ mắc bệnh, có trẻ lại không. Điều này là do sự khác biệt về hệ thống miễn dịch. Trẻ hay bị ốm, dễ mắc các bệnh nhiễm trùng là biểu hiện của hệ thống miễn dịch yếu và chế độ dinh dưỡng chưa tốt”, ThS Tiến nói.

Theo ThS, nhiều nghiên cứu đã chứng minh sự thiếu hụt protein hoặc axit amin trong chế độ ăn uống có thể làm suy giảm chức năng miễn dịch, giảm khả năng chống lại sự xâm nhập của vius, vi khuẩn gây bệnh. Các amino acid hấp thu trong cơ thể do protein cung cấp có vai trò quan trọng như: là thành phần chính của kháng thể giúp cơ thể chống lại các bệnh nhiễm khuẩn, thực hiện chức năng miễn dịch và là thành phần của các men, nội tiết tố trong hoạt động chuyển hóa của cơ thể.

Như vậy, để có sức đề kháng tốt, ít bị bệnh, cơ thể phát triển tốt, bé cần một chế độ dinh dưỡng đầy đủ, đa dạng, cân đối và hợp lý theo nhu cầu lứa tuổi. ThS Tiến đưa ra một số hướng dẫn trong chế độ dinh dưỡng hàng ngày cho trẻ ở từng độ tuổi khác nhau để phụ huynh có thể áp dụng.

Nuôi con bằng sữa mẹ

ThS.BS Nguyễn Văn Tiến khuyến cáo, cần cho trẻ bú ngay sau khi sinh, bú hoàn toàn sữa mẹ ít nhất trong 6 tháng đầu. Cho bú đến 24 tháng tuổi hoặc lâu hơn và tiêm phòng vắc xin là cách tốt nhất để bảo vệ sức khỏe của trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ.

“Sữa mẹ là nguồn thức ăn tự nhiên tốt nhất cho trẻ, có đầy đủ các thành phần dinh dưỡng với tỷ lệ cân đối phù hợp với hệ tiêu hóa và hấp thu của trẻ. Sữa mẹ còn có kháng thể giúp bé tăng cường sức đề kháng, chống lại các bệnh nhiễm trùng. Việc nuôi con bằng sữa mẹ sẽ giảm nguy cơ thiếu dinh dưỡng hoặc thừa dinh dưỡng, các bệnh mạn tính không lây khi trưởng thành, đặc biệt là bệnh lý tim mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường,…”, ThS Tiến thông tin.

Ăn bổ sung đúng độ tuổi

Ngoài sữa mẹ, nên bổ sung thêm thức ăn khác cho trẻ. Tổ chức Y tế Thế giới khuyến nghị, thời điểm cho trẻ ăn bổ sung (ăn sam, ăn dặm) là khi con tròn 6 tháng tuổi (do nhu cầu của trẻ tăng cao, sữa mẹ không thể đáp ứng hoàn toàn). Không để trẻ ăn bổ sung quá sớm hoặc quá muộn, ăn thiếu về số lượng, chất lượng, thiếu vệ sinh dẫn đến suy dinh dưỡng, bệnh tật vì giai đoạn ăn bổ sung đến khi cai sữa là thời kỳ đe doạ suy dinh dưỡng nhất đối với trẻ. Nguyên tắc cho con ăn bổ sung là ăn từ ít đến nhiều, từ lỏng đến đặc.

“Trong 6 tháng đầu, trẻ được mẹ truyền kháng thể qua sữa mẹ nên ít bị bệnh. Tuy nhiên, sau 6 tháng tuổi, lượng kháng thể có là tự cơ thể trẻ đảm nhiệm, do vậy hệ miễn dịch của trẻ còn thiếu và yếu. Bất kỳ một thức ăn bổ sung nào cũng cần được bảo quản, chế biến đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm”, ThS Tiến lưu ý.

Tùy theo độ tuổi, bữa ăn bổ sung phải đảm bảo cung cấp đủ các chất dinh dưỡng thiết yếu từ 4 nhóm thực phẩm: glucid, protein, lipid, vitamin và chất khoáng. Cho ăn đủ nhu cầu, cân đối các chất dinh dưỡng sẽ giúp trẻ phát triển tốt. Ngược lại, nếu ăn thiếu hoặc dư thừa, bé sẽ có nguy cơ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, thể thấp còi, thể thừa cân béo phì. Một chế độ ăn nhiều chất đạm có thể khiến hệ tiêu hóa của bé phải làm việc mệt mỏi, dễ rối loạn tiêu hóa, gây phân sống, tiêu chảy,…

Việc chế biến thức ăn nên phù hợp theo từng lứa tuổi. Với trẻ dưới 12 tháng, thức ăn cần xay thành bột, thái nhỏ, nghiền nát, nấu kỹ cho dễ tiêu. Khi trẻ trên 12 tháng và có đủ răng hàm, cần cho ăn thô hơn để tập nhai. Trẻ từ 6-7 tháng nên cho ăn thịt, trứng; từ 7-8 tháng tập cho ăn cá, tôm, cua, đậu đỗ, vừng, lạc…; từ 9 tháng có thể tập cho ăn tất cả các loại thức ăn giống người lớn.

Khi trẻ được 7-8 tháng, có thể cho bé tập cho ăn cá, tôm và những thực phẩm khác như cua, đậu đỗ, vừng, lạc…- Ảnh minh họa

Số bữa ăn của trẻ

Sau 6 tháng, vẫn nên cho bé bú mẹ là chính kết hợp 1-2 bữa bột loãng và nước quả, có thể cho uống thêm sữa ngoài thay cho một bữa bột (150-200ml). Từ 7-9 tháng, cho con bú mẹ kết hợp 2-3 bữa bột đặc (10%) cùng nước quả hoặc hoa quả nghiền. Ttừ 10-12 tháng cho bú mẹ kết hợp 3-4 bữa bột đặc (15%), hoặc cháo và nước quả, hoa quả nghiền.

Với trẻ 1-2 tuổi, nên tiếp tục cho bú mẹ, nếu mẹ không có sữa thì uống sữa ngoài 300ml-500ml/ngày, ăn 4 bữa cháo hoặc súp mỗi ngày, ăn quả chín theo nhu cầu của trẻ. Lượng thực phẩm trong ngày gồm: gạo: 100-150g; thịt (cá, tôm): 100-120g; 1 tuần 3-4 quả trứng gà; dầu, mỡ: 25-30g; rau xanh: 50g-100g; quả chín: 150-200g.

Với các bé từ 2-3 tuổi, nên chuyển từ chế độ ăn cháo sang ăn cơm nát, nhưng vẫn phải cho ăn thêm cháo mỳ, súp, phở và uống sữa. Số bữa ăn trong ngày gồm 4 bữa cơm nát (cháo, mỳ, súp), sữa: 300-500ml/ngày. Lượng thực phẩm trong một ngày: gạo tẻ: 150-200g (nếu nấu bún, mỳ, súp thì rút bớt gạo đi); thịt (cá, tôm): 120-150g; dầu mỡ: 30-40g; rau xanh: 150-200g; quả chín: 200g.

Với nhóm trẻ từ 3-5 tuổi, số bữa ăn hàng ngày giống như cho trẻ từ 2-3 tuổi (4 bữa) nhưng lượng ăn phải tăng lên. Ở lứa tuổi này, nên cho con ăn các món yêu thích. Tuy nhiên, không nên cho trẻ ăn bánh kẹo, nước ngọt, quả chín ngọt trước mỗi bữa ăn. Lượng thực phẩm hàng ngày: gạo tẻ: 200-300g; thịt (cá, tôm): 150-200g; dầu, mỡ: 30-40g; rau xanh: 200-250g; quả chín: 200-300g; sữa: 300-500ml.

Nhóm trẻ mẫu giáo và học sinh cần ăn uống điều độ, đủ nhu cầu các chất dinh dưỡng theo từng lứa tuổi. Nếu con bị biếng ăn, cần bổ sung các loại thực phẩm giàu dinh dưỡng. Ăn nhiều quả chín, rau xanh.

Cho uống đủ nước

ThS Tiến thông tin, uống đủ nước là một trong những cách tăng sức đề kháng cho bé. Nước có tác dụng đưa bạch cầu đi khắp cơ thể, đồng thời, đào thải những chất độc hại ra ngoài thông qua tuyến mồ hôi. Một lượng nước vừa đủ mỗi ngày sẽ giúp tăng cường trao đổi chất, cung cấp dinh dưỡng cần thiết cho tế bào. Lượng nước cần uống mỗi ngày phụ thuộc vào độ tuổi, cân nặng và cường độ hoạt động, vui chơi của từng bé.

Cho con ngủ đủ giấc

Một giấc ngủ sâu và đủ dài rất cần thiết cho sự phát triển của bé, hỗ trợ tăng sức đề kháng và giúp phát triển trí tuệ, chiều cao, cân nặng cũng như tạo tinh thần thoải mái. Vì vậy, phụ huynh cần đảm bảo cho con một giấc ngủ sâu từ 8 -11 tiếng tùy theo độ tuổi. Thời gian ngủ như sau: trẻ từ 4 – 12 tháng: ngủ 12-16 giờ; trẻ từ 1 – 2 tuổi: ngủ 11-14 giờ, trẻ từ 3 – 5 tuổi: ngủ 10-13 giờ.

Chăm sóc và nuôi dưỡng khi trẻ ốm:

Khi bé bị ốm như sốt, tiêu chảy,… nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng cần nhiều hơn bình thường. Một số bà mẹ có quan niệm sai lầm, bắt trẻ phải ăn kiêng khem như: không cho con bú, không cho ăn dầu hoặc mỡ, chất đạm và rau xanh, chỉ cho trẻ ăn bột ngọt (đường),…vì sợ con đi ngoài nhiều hơn.

ThS Tiến khuyến cáo, chế độ ăn uống kiêng khem như trên làm bữa ăn mất cân đối, không đủ chất, khiến bé dễ có nguy cơ suy dinh dưỡng. Thay vào đó, cha mẹ nên cho bé ăn đủ chất, ăn nhiều hơn cả trong và sau khi vừa khỏi bệnh.

Nguồn: VietNamNet