Trang chủ Dinh dưỡng Ốc đá Hòa Bình – lộc rừng thức giấc

Ốc đá Hòa Bình – lộc rừng thức giấc

2
0
Chia sẻ

Mùa mưa vừa chớm. Ở những cánh rừng rậm rạp quanh xóm Rên, xã Gia Mô (huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình), dân bản lại rỉ tai nhau: “Ốc đá ra rồi đấy!”.

Vài người nhanh chân chuẩn bị đèn pin, gùi tre, bắt đầu chuyến đi đêm len lỏi trong lòng rừng. Còn lũ ốc nhỏ âm thầm như sương, bắt đầu bò ra khỏi hang đá, dưới tán cây ẩm rậm và lớp lá mục, mở màn cho một mùa thức giấc ngắn ngủi.

“Lộc trời” giấu mình trong đá

Ốc đá Hòa Bình còn gọi là ốc núi hay ốc thuốc là loài đặc hữu sinh sống trong các khe đá, hang núi đá vôi và suối nhỏ giữa rừng. Không dễ để bắt gặp chúng. Loài ốc này “ngủ đông” suốt mùa khô, chỉ xuất hiện khi có những cơn mưa rào đầu tiên và độ ẩm đủ lớn. Lúc ấy, chúng lặng lẽ rời hang, bò đi kiếm ăn vào ban đêm – chậm chạp, gần như vô hình, nếu không có một đôi mắt tinh tường và chiếc đèn pin đủ mạnh.

Đây là loài ốc hiếm gặp: Vỏ xoắn ngang, thân tròn dẹt như đồng xu, vỏ dày màu nâu sẫm, đôi khi pha trắng ngà. Nhưng điều làm nên giá trị của chúng không nằm ở vẻ ngoài, mà nằm ở… thói quen ăn uống: Ốc đá chủ yếu ăn lá cây rừng, trong đó có nhiều loại lá thuốc nam quý. Nhờ vậy, thịt ốc khi ăn có mùi thảo mộc thoảng nhẹ, giòn sật, đậm vị núi rừng. Người Thái, người Mường tin rằng phần “đuôi” ốc – nơi chứa ruột, chính là túi thuốc tự nhiên do ốc hấp thụ tinh chất rừng cây.

Theo những người đi rừng nhiều kinh nghiệm, ốc đá phân bố chủ yếu tại các huyện miền núi như: Mai Châu, Tân Lạc, Kim Bôi, Lạc Sơn, và một phần Lạc Thủy. Những vùng này có địa hình đá vôi, thảm thực vật rậm, độ ẩm cao – môi trường sống lý tưởng của ốc. Đặc biệt, khu vực bản Lác, Chiềng Châu (Mai Châu), rừng Gia Mô (Tân Lạc), hay rừng rậm Cun Pheo, Tân Dân… đều được dân bản coi là nơi “giấu kho ốc”.

Một cán bộ kiểm lâm chia sẻ: “Ốc núi thường sống ở độ cao trung bình, gần suối nhỏ hoặc khe nước rỉ, nơi có nhiều lá rụng và bóng râm. Chúng không chịu được khô hạn hay ô nhiễm. Môi trường càng nguyên sinh, càng có nhiều ốc đá.” Cũng bởi vậy, nếu rừng suy thoái, mất bóng cây thuốc, ốc cũng sẽ dần biến mất.

Nói như bà con bản Rên: “Mỗi mùa, bắt được bao nhiêu ốc là biết năm đó mưa thuận rừng tốt đến đâu”. Bởi ốc không chỉ là thực phẩm, mà còn là chỉ dấu sinh thái của một hệ rừng còn khỏe.

Đặc sản được săn đón

Ở bản Lác, nơi khách du lịch ngủ sàn, ăn cơm lam, tối đến nghe tiếng khèn lẫn tiếng côn trùng, món ốc đá hấp sả gần như là “nghi thức chào bản”. Ốc được luộc sơ rồi hấp cùng gừng, sả, lá chanh, thêm vài lát ớt rừng, chỉ mươi phút là dậy mùi thơm. Khách nhón từng con ốc nhỏ, chấm mắm chanh ớt pha mắc khén, giật mình vì vị ngọt thanh lành, giòn sật, thoảng chút đăng đắng – vị của rừng, không lẫn đi đâu được.

Người Thái ở Mai Châu, người Mường ở Tân Lạc, Kim Bôi không gọi ốc đá là món ăn. Họ gọi là “vị thuốc trời cho”. Không giống ốc bươu hay ốc nhồi nuôi công nghiệp, ốc đá nhỏ, gọn, ăn cả ruột, không tanh mà lại có mùi thuốc nhẹ. Bởi ốc ăn lá rừng – từ sâm đất, lá lốt, ngải cứu đến các cây thuốc mà chỉ người bản xứ mới nhận ra. Cũng vì vậy, người bản địa có nguyên tắc bất di bất dịch: “Ăn ốc phải ăn cả ruột”, nếu không thì… phí của trời. Cái vị hơi đắng đó chính là tinh chất cây rừng được tích tụ qua thời gian ngủ đông, mà người già nói đùa là “ốc nó ủ thuốc trong bụng”.

Không ai rõ người Mường bắt đầu ăn ốc đá từ bao giờ. Chỉ biết rằng, mỗi mùa mưa về, khi lúa chưa gặt, khi rừng mới thức, bà con lại lên rừng “nhặt lộc”, đem về cải thiện bữa ăn. Từ bữa cơm thường ngày đến mâm cỗ đón khách, món ốc đá hấp, xào lá lốt, hay nộm ốc trộn rau thơm luôn có mặt như một niềm tự hào thầm lặng.

Ngày nay, ốc đá Hòa Bình xuất hiện cả ở thực đơn các nhà hàng đặc sản tại TP Hòa Bình, Kim Bôi, hay bản du lịch cộng đồng như: Bản Lác, bản Pom Coọng… Một đĩa ốc hấp sả giá chỉ trăm nghìn, nhưng được nhiều du khách nhận xét: “Đáng tiền như gà đồi, lợn bản”.

Ở một góc bếp homestay tại Chiềng Châu, chị Hà – chủ nhà sàn cười: “Khách nước ngoài thì thấy lạ, khách Hà Nội thì thấy ngon, còn dân bản thì thấy… nhớ. Không có mùa mưa, không có ốc, là thấy bữa ăn thiếu mất một mảnh ký ức”.

Ốc đá vì thế không chỉ là thức ăn. Nó là một phần hồn cốt trong bữa cơm người Mường, người Thái, là gia vị của những buổi quây quần bên ché rượu cần, là thứ quà quê chân thành mà nếu ai đã từng ăn thì dễ ghi nhớ suốt đời.

Săn ốc – nguồn thu từ rừng

Khi cơn dông đầu hạ vừa dứt, từng tốp người – phần lớn là phụ nữ, lại gùi sọt, đội đèn pin, lội rừng xuyên đêm. Không tiếng máy nổ, không dao búa ồn ào, chỉ có ánh sáng lập lòe quét qua từng thảm lá, từng gốc cây ẩm. Đó là những người “săn ốc đá”, sống nhờ món quà rừng khi chưa vào mùa gặt.

Chị Bùi Thị Mến (xóm Rên, Gia Mô, Tân Lạc) kể: “Ốc ra vào đêm mưa, chậm rãi, bám trên đá hoặc bò dưới đám lá mục. Soi kỹ thì thấy vỏ tròn dẹt, bóng nâu. Có đêm tôi đi hơn 3 tiếng, được gần 5 cân. Bán đầu buổi sáng, mỗi cân được gần 80.000 đồng.”

Ốc đá tuy nhỏ nhưng giá không hề “nhẹ”. Vào đầu vụ, thương lái sẵn sàng trả tới 90.000 đồng/kg, càng ốc to, càng sạch, giá càng cao. Trung bình mỗi đêm, người khéo bắt có thể thu 4 – 7kg. Một mùa ốc kéo dài 3 – 4 tháng, người siêng năng có thể kiếm 5 – 7 triệu đồng/tháng, một khoản không nhỏ với nhiều gia đình miền núi.

Ở vùng cao, nơi việc làm ít, sinh kế mong manh, thì ốc đá được xem như “lộc trời” nuôi người. Không cần đầu tư, không cần phân bón hay thức ăn, chỉ cần mắt tinh, tay lẹ và đôi chân dẻo. Nhiều hộ còn làm quen với Facebook, Zalo để nhận đặt hàng từ dưới xuôi. Có ngày một thương lái gom được cả tạ ốc gửi xe khách về Hà Nội.

Chính vì thế, ốc đá từ chỗ là món ăn dân dã đã trở thành “hàng hóa đặc sản”. Những con ốc bé nhỏ mang theo cả kỳ vọng: Giúp người Mường, người Thái có thêm bữa ăn đủ đầy; giúp người làm du lịch có thêm sản phẩm hút khách; giúp người săn rừng có thêm niềm vui sau mỗi cơn mưa.

Nhưng cũng từ đây, một lo ngại bắt đầu hình thành: Khi càng nhiều người đi săn, liệu rừng còn đủ ốc để chia đều cho tất cả? Khi mỗi mùa ốc là một cuộc gom hàng quy mô lớn, liệu con đường săn “lộc rừng” có trở thành sinh kế ấy kéo dài được bao lâu?

Đánh cược với bóng tối

“Ngày xưa đi bắt ốc đá chỉ cần bước ra sau bản, giờ thì phải leo tận đỉnh, đi sâu cả cây số”, ông Bùi Văn Chạo, một người có hơn 20 năm “soi ốc” ở Tân Lạc chép miệng. “Ốc không còn nhiều như trước nữa. Càng ngày càng ít”.

Lời ông không phải than thở. Đó là thực tế đang hiện rõ trên từng bước chân đi rừng của dân bản. Khi ốc thành đặc sản thì rừng trở thành kho hàng, và mỗi cơn mưa xuống lại là một đợt gom hàng ráo riết. Có thời điểm, thương lái đứng ngay bìa rừng, chờ người dân mang ốc ra để mua theo cân. Thậm chí, trên mạng xã hội đã xuất hiện các nhóm chuyên rao thu mua “ốc núi sống nguyên con, không giới hạn số lượng”.

Cũng từ đó, những người đi bắt không còn chỉ nhặt ốc to mà gom sạch cả ốc nhỏ, ốc chưa trưởng thành. Một số còn dùng cả đèn công suất lớn, lật tung đá, bới sâu lớp lá rừng khiến môi trường sống của ốc bị đảo lộn.

Hệ quả đang dần lộ rõ. Tại nhiều khu vực ở Mai Châu, Tân Lạc, người dân phải đi xa hơn, sâu hơn mới tìm được ổ ốc. Có vùng trước kia mỗi đêm bắt được chục ký, nay chỉ còn vài ba ký lác đác.

Hiện tại, ốc đá chưa được xếp vào danh mục loài cần bảo vệ, cũng chưa có quy định về mùa khai thác, cỡ ốc tối thiểu hay vùng cấm săn bắt. Chính quyền địa phương dù nhận thấy nguy cơ nhưng gần như chỉ dừng ở mức tuyên truyền.

“Cái khó là ốc tự nhiên, sống rải rác trong rừng chưa ai nuôi được, cũng chưa ai thống kê được số lượng”, một cán bộ Hạt kiểm lâm thừa nhận. “Nếu không kiểm soát tốt, vài năm nữa có thể phải mua ốc đá… nhập khẩu về làm đặc sản”.

Một loài ốc nhỏ từng là thức ăn mùa mưa giờ trở thành món hiếm trong rừng. Và khi “lộc trời” ngày càng cạn, câu hỏi đặt ra là: Chúng ta sẽ làm gì để không đánh mất món quà ấy chỉ vì một mùa vụ ngắn hạn?

Mỗi mùa mưa, khi tiếng sấm đầu hạ vọng về từ lòng núi, người bản lại nôn nao chờ đợt ốc đầu tiên. Đó không chỉ là miếng ăn mà là tín hiệu: Rừng còn khỏe, lộc trời còn đó. Nhưng nếu hôm nay ta mải mê gom sạch cả ốc non, cả ổ ốc chưa kịp sinh, nếu mỗi trận mưa là một đợt vét cạn… thì mai này liệu còn ai nghe thấy tiếng ốc đá bò dưới tán lá rừng?

Giữ rừng là giữ ốc. Giữ ốc là giữ lấy một phần ký ức của người Mường, người Thái, là giữ lại món ăn có vị thuốc, là giữ luôn cả con đường mưu sinh lặng lẽ mà bền vững cho bao mái nhà dưới chân núi.

Nguồn: Lao động